Với một đất nước có địa hình thấp hơn mực nước biển, mặt đất tích nước còn đông đến thì giá rét và độ ẩm cao thì người nông dân phải hết sức vất vả để vượt qua sự khắc nghiệt đó. Họ tìm cách nào để chân trần không tiếp xúc với băng giá mà giá cả thì không quá đắt. Thế là họ khoét rộng miếng gỗ, tạo thành một cái đế chắc chắn, mũi guốc vểnh lên như chiếc thuyền. Trong lòng guốc thêm rơm nên đi vào vừa êm vừa ấm áp. Từ đó guốc gỗ được lưu hành rộng rãi ở Hà Lan.
Giày gỗ Hà Lan hay guốc gỗ Hà Lan còn có tên gọi khác là Clogs. Trải qua lịch sử hưn 700 năm, tuy có những thay đổi về kiểu dáng cho phù hợp với thị hiếu khách hàng nhưng những đôi guôc gỗ này đã trở thành một phần không thể thiếu trong tủ đồ của người Hà Lan.
Ban đầu chỉ có đế giày làm bằng gỗ còn phần còn lại đều làm bằng da và gim chặt lại bằng đinh. Dần dần họ thay tất cả đều bằng gỗ để tránh rét triệt để.Những đôi giày gỗ cổ nhất còn lưu giữ hiện tại tại các viện bảo tàng được cho là xuất hiện vào khoảng những năm 1230 đến 1280. Chúng được tìm thấy tại các thành phố Amsterdam và Rotterdam, có kiểu dáng không thay đổi nhiều so với đôi giày của người Hà Lan hiện nay.
Ngày nay, mặc dù ngành sản xuất giày dép rất phát triển, song nhiều người Hà Lan vẫn có thói quen đi guốc gỗ, đặc biệt là nông dân và ngư dân. Ở nhiều gia đình, nông dân vẫn có những “chỗ để guốc gỗ”. Người nào vào trong nhà cũng phải tháo guốc để vào đó.
Ở Hà Lan, guốc gỗ còn là tín vật đính ước. Nam nữ khi đính hôn, người con trai phải tặng người con gái một đôi guốc gỗ. Có đám cưới còn tặng guốc cho những người đến dự. Ở thành phố, ít thấy người nào đi, nhưng guốc gỗ vẫn được bày bán cho khách du lịch.
Chiếc giày gỗ còn góp mặt trong các điệu nhảy truyền thống như Klompendanskunt ở các lễ hội Hà Lan xưa và nay. Giày để nhảy được đóng bằng gỗ tần bì, với màu sắc rực rỡ và nhẹ hơn bình thường. Các vũ công sẽ tạo ra các điệu nhảy vui nhộn bằng cách gõ mũi và đế giày xuống sàn gỗ.